Khởi tố vụ án hình sự là nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự, không phụ thuộc vào ý muốn bất kì chủ thể nào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nói tóm tắt là quyền bãi nại. Vậy bãi nại là gì và những trường hợp nào có đơn bãi nại thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, chúng tôi sẽ giúp các bạn tìm hiểu thêm qua biết viết sau.
Bãi nại là gì?
Bãi nại được hiểu là bãi bỏ một yêu cầu khiếu nại/khởi tố của một vụ án nào đó. Đơn bãi nại không phải là một thuật ngữ pháp lý, mà chỉ đơn giản là thuật ngữ để nói đến đơn yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc người bị hại đã chết với nội dung rút lại yêu cầu khởi kiện vụ án, tức là không còn tiếp tục khởi kiện vụ án nữa.
Những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự khi có đơn bãi nại
Căn cứ khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng hình sự số 02/2021/QH15 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2021 thì những vụ án hình sự thuộc vào các Điều dưới đây thì mới có thể đình chỉ khi người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu của họ:
- Điều 134 BLHS: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
- Điều 135 BLHS: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
- Điều 136 BLHS: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
- Điều 138 BLHS: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Điều 139 BLHS: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.
- Điều 141 BLHS: Tội hiếp dâm.
- Điều 143 BLHS: Tội cưỡng dâm.
- Điều 155 BLHS: Tội làm nhục người khác.
- Điều 156 BLHS: Tội vu khống.
Đây là những tội danh mà người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của bị hại cũng như ảnh hưởng đến nhà nước và xã hội ở mức độ hạn chế. Nếu như bị hại tiếp tục theo đuổi vụ án thì có thể gây mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc, thậm chí còn có thể làm giảm uy tín, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm và còn gây ra tiếp những tổn hại về tinh thần cho họ. Do vậy, BLTTHS đã trao cho bị hại quyền tự quyết và định đoạt, tức là vụ án chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại trong một số trường hợp đặc biệt và họ cũng có thể rút lại yêu cầu của mình để chấm dứt tiến trình giải quyết vụ án để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của mình, nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của xã hội và nhiệm vụ của nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thời điểm được rút lại yêu cầu khởi tố
Về thời điểm rút đơn, người bị hại hoặc đại diện người bị hại được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc nào trong suốt quá trình tố tụng, từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử.
Việc không giới hạn giai đoạn thực hiện quyền rút yêu cầu khởi tố giúp cho bị hại có thời gian cân nhắc để quyết định có yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay không, phù hợp với những sửa đổi, bổ sung trong chế định miễn trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với các nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.
Trường hợp có đơn bãi nại nhưng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Căn cứ vào quy định trên, người phạm tội không thuộc các tội danh tại Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng hình sự số 02/2021/QH15 thì đơn bãi nại của người bị hại không có giá trị để đối tượng có hành vi phạm tội tránh được việc bị xử lý hình sự, trong trường hợp này đơn bãi nại chỉ có thể được xem như một tình tiết giảm nhẹ cho đối tượng phạm tội.
Như vậy, người thực hiện hành vi phạm tội thuộc quy định tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng hình sự số 02/2021/QH15 chỉ bị khởi tố khi có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc đại diện của bị hại. Trong quá trình giải quyết bị hại hoặc đại diện gia đình bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ bị đình chỉ. Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội không thuộc quy định tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng hình sự số 02/2021/QH15 thì trách nhiệm khởi tố thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, đơn yêu cầu khởi tố của bị hại không còn là điều kiện khởi tố vụ án hình sự. Do đó, dù người bị hại hoặc đại diện người bị hại có đơn bãi nại thì vụ án vẫn không bị đình chỉ, người thực hiện hành vi phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hoài Liêm